Trang chủ Xuân Quỳnh

Xuân Quỳnh

Xuân Quỳnh

Thân Thế – Sự Nghiệp

Xuân Quỳnh (1942-1988) tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay là phường La Khê, quận Hà Đông, Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình công chức, mẹ mất sớm, bố thường xuyên công tác xa gia đình, Xuân Quỳnh được bà nội nuôi dạy từ nhỏ đến khi trưởng thành.

Tháng 2 năm 1956, Xuân Quỳnh được tuyển vào Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và được đào tạo thành diễn viên múa. Bà đã nhiều lần đi biểu diễn ở nước ngoài và dự Đại hội thanh niên sinh viên thế giới năm 1959 tại Vienna (Áo).

Từ năm 1962 đến 1964, Xuân Quỳnh học Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ (khoá I) của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi học xong, làm việc tại báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt Nam. Xuân Quỳnh là hội viên từ năm 1967, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III. Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ, trước đó, Xuân Quỳnh kết hôn lần đầu tiên với một nhạc công của Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và đã ly hôn. Từ năm 1978 đến lúc mất, Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới.

Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một vụ tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là thành phố), tỉnh Hải Dương, cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.

Bà được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Ngày 30 tháng 3 năm 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang ký Quyết định số 602 chính thức truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho cố nhà thơ Xuân Quỳnh với hai tập thơ là Lời ru trên mặt đấtBầu trời trong quả trứng.

Phong Cách Nghệ Thuật:

Thơ Xuân Quỳnh giàu cảm xúc với những cung bậc khác nhau như chính tính cách luôn hết mình của Xuân Quỳnh. Những bài thơ khi hạnh phúc đắm say, lúc đau khổ, suy tư của nhà thơ luôn gần gũi vì được viết với sự đằm thắm của một người phụ nữ vừa làm thơ vừa làm vợ, làm mẹ.

Thơ Xuân Quỳnh hướng nội, rất tâm trạng cá nhân nhưng không là thứ tháp ngà xa rời đời sống. Thơ bà là đời sống đích thực, đời sống của bà trong những năm đất nước còn chia cắt, còn chiến tranh, còn nghèo, còn gian khổ, là những lo toan con cái, cơm nước, cửa nhà của một người phụ nữ, người phụ nữ làm thơ thường ngược xuôi trên mọi ngả đường bom đạn. Xuân Quỳnh không làm ra thơ, không chế tạo câu chữ mà chỉ viết như kể lại những gì bà đã sống, đã trải.  Nét riêng của Xuân Quỳnh so với thế hệ nhà thơ hiện đại cùng thời chính là ở khía cạnh nội tâm đó.

Tác Phẩm:

Thơ:
– Tơ tằm, chồi biếc (thơ in chung, NXB Văn học, 1963)
– Hoa dọc chiến hào (NXB Văn học, 1968)
– Gió Lào cát trắng (NXB Văn học, 1974)
– Lời ru trên mặt đất (NXB Tác phẩm mới, 1978)
– Bầu trời trong quả trứng (thơ thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 1982)
– Sân ga chiều em đi (NXB Văn học, 1984)
– Tự hát (NXB Tác phẩm mới, 1984)
– Hoa cỏ may (thơ, 1989, Giải thưởng văn học 1990 của Hội Nhà văn)
– Truyện Lưu, Nguyễn (truyện thơ, NXB Kim Đồng, 1983)
– Thơ viết tặng anh (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1988)

Dịch:
– Bố ơi, bố làm con sợ đi (truyện tranh, t/g: Tamara Đăngblông, NXB Kim Đồng, 1989)

Truyện:
– Bao giờ con lớn (truyện tranh, NXB Kim Đồng, 1975)
– Mùa xuân trên cánh đồng (NXB Kim Đồng, 1981)
– Bến tàu trong thành phố (NXB Kim Đồng, 1984)
– Vẫn có ông trăng khác (tập truyện ngắn, NXB Kim Đồng, 1988)